Văn hóa nghệ thuật dân gian có thể nói là một trong những điều tạo nên những điều đặc sắc cho đất Việt. Mỗi loại hình thức khác nhau giúp tạo nên điểm đặc biệt cho 54 dân tộc ở Việt Nam. Mỗi loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian là một màu sắc riêng đại diện đặc trưng cho mỗi vùng miền
Trong bài viết bên dưới đây mình sẽ giới thiệu tới các bạn một số loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống. Hãy cùng mình theo dõi bài viết bên dưới nhé !
1. Trọn đời với dân ca
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Đặng Thị Kim Liên, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian đất nước ta tỉnh Quảng Bình cho biết: Toàn tỉnh hiện có 24 nghệ nhân dân gian (NNDG), trong số đó có 15 NNDG đất nước ta. Như con tằm âm thầm ươm tơ, nhiều NNDG, như cố nghệ nhân (NN) Phạm Thị Thứu (ca trù Đông Dương), cố NN Phạm Ngọc Thức (hát ru, hò biển Cảnh Dương)… Đã gắn trọn cả cuộc đời cho việc gìn giữ, truyền dạy, biểu diễn văn nghệ dân gian, góp phần bảo tồn, phát huy các tinh hoa văn hóa của quê hương.
Trong số các NNDG Việt Nam, đã có 8 NN được phong tặng danh hiệu NN ưu tú và 1 NN được phong tặng danh hiệu NN nhân dân. Điều đáng mừng là hầu hết các địa phương đều có NN tiêu biểu. Chính họ là “linh hồn” của các CLB văn nghệ truyền thống-nơi nắm giữ, trao truyền các giá trị văn hóa cổ xưa của mỗi làng quê.
không những biểu diễn phục vụ người dân địa phương, các CLB văn nghệ dân gian còn tạo nhiều thành công tại các liên hoan nghệ thuật đàn hát dân ca do tỉnh tổ chức. |
2. “Giữ lửa” văn nghệ dân gian – văn hóa nghệ thuật dân gian
Những năm gần đây, các CLB văn nghệ truyền thống, CLB đàn hát dân ca… Và các đội, nhóm văn nghệ quần chúng trên địa bàn tỉnh ta phát triển khá rầm rộ. đây chính là nơi tập hợp những NN nòng cốt trong phong trào văn hóa, văn nghệ ở địa phương.
Ngoài những CLB ra đời sớm và phát triển mạnh như: CLB văn hóa dân gian xã Nhân Trạch, CLB ca trù Đông Dương, các CLB hò khoan Lệ Thủy…, nhiều CLB ra đời sau nhưng cũng có bước phát triển mãnh liệt trong việc duy trì sinh hoạt, luyện tập và xây dựng các chương trình biểu diễn như: CLB yêu câu hò xứ Lệ (Lệ Thủy), CLB hát ru, hò khơi (Cảnh Dương, Quảng Trạch), CLB hát Kiều làng Pháp Kệ (Quảng Phương, Quảng Trạch), CLB đàn, hát dân ca xã Vạn Ninh (Quảng Ninh), CLB hát phường nón Quảng Thuận (Ba Đồn), CLB đàn, hát dân ca Hồng Hóa (Minh Hóa)…
Xem thêm : Thực đơn ăn uống khoa học – cách ăn uống hợp lý
Mỗi CLB được ví như đoàn văn công của mỗi làng quê bởi ở đó quy tụ nhiều gương mặt có tài năng từ hát, dùng nhạc cụ dân tộc, sáng tác và biên đạo… Đơn cử như CLB đàn, hát dân ca xã Hồng Hóa (Minh Hóa), một trong những CLB có tuổi đời còn khá non trẻ tuy nhiên ngay từ khi thành lập đã xây dựng được quy chế hoạt động cụ thể.
3. Các hình thức văn hóa nghệ thuật dân gian
1. Chèo – văn hóa nghệ thuật dân gian
Chèo là loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian có từ lâu đời, trọng điểm phát triển ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Sân khấu diễn xướng thường là ở sân đình vào các dịp lễ tết. Thể loại này là sự kết hợp khéo léo giữa lối nói ví von, giàu tính tự sự, trữ tình và ngôn ngữ đa nghĩa, đa thanh, cùng chất giọng hát luyến láy, nhấn nhá của người diễn.
Các vở chèo thường được sáng tác dựa trên từ những câu chuyện cổ tích, những tích truyện truyền miệng về những mối tình oan trái, hay những con người đáng thương trong xã hội. Nội dung của nó mang giá trị hiện thực sâu sắc, đề cao những phẩm chất đạo đức cao quý như đức hy sinh, lòng dũng cảm, sự trung thành, chung thủy,… Nên dù nội dung không phải là thực tế nhưng vẫn gây xúc động và để lại ấn tượng sâu sắc cho khán giả.
Chèo – nghệ thuật sân đình
2. Cải lương – văn hóa nghệ thuật dân gian
Nếu như chèo nổi tiếng ở miền Bắc thì cải lương có vẻ phổ biến hơn ở trong miền Nam. Nội dung của các vở cải lương là từ các câu chuyện nổi tiếng như Kim Vân Kiều truyện, truyện Lục Vân Tiên, tích Lưu Bình – Dương Lễ, Lan và Điệp,… Chiều theo thị hiếu của khán giả như thế nào. Cách điệu của cải lương là các nhạc khí giân dan Kết hợp với giọng hát dân ca, tạo nên nét đặc trưng khác biệt cũng như điểm lôi cuốn khán giả.
3. Hát ca trù (hát ả đào)
Đây là bộ môn nghệ thuật có nhiều thăng trầm trong lịch sử, phổ biến vào khoảng thể kỉ 15. Thường có các phường hát ả đào, phục vụ các khách trọng điểm là những người có chức quyền, thuộc giới thượng lưu. Thể loại này là hát nói kết hợp nhịp trống và phách, chủ yếu nói về tình yêu nam nữ, các cuộc tình ngang trái…
4. Tuồng – văn hóa nghệ thuật dân gian
Đề cập tuồng thì nổi tiếng quan trọng là ở khu vực Trung Bộ, những tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh,… Tuồng thường kể lại những tích truyện lịch sử, về các danh tướng, các biến cố của các triều đại. Thường người diễn được trang điểm rất nổi bật, “cá tính hóa” với các sắc màu để phân biệt vai diễn: màu đỏ là trung thần, xám là nịnh thần, xanh lục là hồn ma và đen là người thật thà. Cách nhá chữ, ngắt chữ, lên, xuống giọng để phù hợp với tính cách nhân vật đã tạo nên nhiều lối nói khác nhau như bóp, ai, đạp, xuân nữ… Khi nói sẽ có nhạc hòa theo.
Xem thêm : Cách ăn uống khoa học – chế độ ăn uống hợp lý
5. Hát Xoan
Hát xoan là loại hình nghệ thuật giân dan bắt đầu từ đất tổ vua Hùng – Phú Thọ. Hát xoan là sự phối hợp nhịp nhàng của hát, múa, diễn xuất, thường biểu diễn trong các lễ hội đầu năm, khi mùa xuân đến. Theo các tin tức đã đưa, hát xoan đã được UNESCO công nhận là sản phẩm kế thừa văn hóa phi vật thể của nhân loại vào ngày 24/11/2011.
6. Dân ca quan họ Bắc Ninh – văn hóa nghệ thuật dân gian
Nhắc đến quan họ là chắc chắn phải nói đến Bắc Ninh và hội Lim. Ân ca quan họ là lối hát đối đáp giữa nam và nữ. Thường các buổi hát quan họ được tổ chức vào mùa xuân hoặc mùa thu khi có lễ hội, hát đối đáp giữa hai người nam – nữ hoặc giữa các cặp nam – nữ với nhau. Nội dung các khúc hát đề cập về tình cảm đôi lứa, tình yêu quê hương quốc gia.
Tạm kết :
Bài viết trên đây mình vừa giới thiệu sơ lược tới các bạn một số loại văn hóa nghệ thuật dân gian. Mong rằng bài viết này sẽ giúp các bạn hiểu thêm về các nền văn hóa nghệ thuật của Việt Nam. Cũng như điểm đặc sắc của mỗi vùng miền và dân tộc. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết !
Vũ – Tổng hợp, chỉnh sửa (Nguồn tổng hợp: baoquangbinh.vn, Vietimes.com.vn, … )